Tổng quan Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu

Địa giới

Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu nằm trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phía Bắc giáp với rừng cao su, phía Đông giáp với huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp với tỉnh lộ 328 và phía Nam giáp với tuyến đường ven biển. Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu có tọa độ địa lý 10°28’ đến 10°38’N và từ 107°25’ đến 107°36’E. Tổng diện tích của khu bảo tồn thiên nhiên là 10,5373 ha. Trong đó, phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 5,012 ha; Phân khu phục hồi sinh thái là 5,4625 ha; Phân khu hành chính dịch vụ là 62,5 ha. Diện tích vùng đệm là 12,154 ha, thuộc địa giới hành chính 4 xã và 1 thị trấn,

Địa hình

Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu được chia thành 4 dạng chính:

  • Phần lớn diện tích của khu bảo tồn có địa hình thấp từ 3-5m so với mực nước biển.
  • Đồi núi: trong khu bảo tồn có 3 cụm đồi thấp gồm Cụm Hồng Nhung (118 m) ở phía Bắc, cụm Hồ Linh (162 m) ở phía Nam, và cụm Mộ Ông (120 m) ở về phía Tây.
  • Lòng chảo trũng: chủ yếu ở phía Bắc và các bưng, hồ rải rác có nước quanh năm hoặc cạn vào mùa khô.
  • Cồn cát ven biển: chạy dài 12 km dọc theo bờ biển phía Nam khu bảo tồn. Hiện tại, phần lớn diện tích cồn cát ven biển nằm bên dưới tỉnh lộ mới ven biển đã được cắt ra khỏi khu bảo tồn.[1]

Khí hậu thuỷ văn

Nhìn chung, khí hậu mang đặc điểm của dải khí hậu ven biển Nam Trung bộ.

  • Nhiệt độ trung bình 25,8 °C, cao nhất 38 °C, thấp nhất 15 °C.
  • Lượng mưa trung bình 1.396mm, cao nhất 1.877mm, thấp nhất 704mm.
  • Độ ẩm tương đối trung bình 85,2%, cao nhất 100% và thấp nhất 36%.
  • Có 2 mùa mưa và khô rõ rệt. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
  • Có 2 hướng gió chính. Mùa mưa có hướng gió Tây Nam, mùa khô có hướng gió Đông Bắc, gió thường thổi mạnh vào buổi trưa và buổi tối.

Về thuỷ văn: Có rất ít sông suối trong khu bảo tồn, nhưng lại có một số bàu nước, như Bàu Nhám và Bàu Tròn, Hồ Cốc, Hồ Linh, và Suối nước nóng Bình Châu.[1]

Kinh tế xã hội

Vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu bao gồm cả vùng đệm trên đất liền và vùng đệm ven biển được xác định như sau: Vùng đệm trên đất liền gồm các xã Bình Châu, Bưng Riềng, Bông Trang, Phước Thuận, Xuyên Mộc và Thị Trấn Phước Bửu với tổng diện tích tự nhiên khoảng 10.000 ha. Vùng đệm ven biển rộng bình quân là 500m tính từ mép nước biển khi thuỷ triều xuống thấp nhất ra phía biển, chiều dài 17 km theo ranh giới Đông – Nam của khu bảo tồn từ Hồ Tràm đến Bến Lội.

Tổng dân số của bốn xã Bình Châu, Bưng Riềng, Bông Trang và Phước Thuận là 39.419 với 8.588 hộ gia đình. Số nhân khẩu trung bình trong một hộ gia đình là 4,52 người. Phần lớn dân cư sống dựa vào nông nghiệp và nuôi trồng, khai thác thuỷ sản.

Nhóm dân tộc lớn nhất sống trong các xã là dân tộc Kinh với 8.154 hộ chiếm 96,63% tổng số hộ sống trong 4 xã. Ngoài ra, còn có 284 hộ gia đình thuộc 10 nhóm dân tộc thiểu số khác nhau chiếm 3,37% tổng số hộ của 4 xã. Tỷ lệ phần trăm của các nhóm dân tộc này được xếp từ cao xuống thấp như sau: Khơme chiếm 1,17%, Châu ro chiếm 0.,84%, Nùng chiếm 0,43%, Tày chiếm 0,35%,  Hoa chiếm 0,18%, Mường chiếm 0,18%, Thái chiếm 0,11 %, Thổ chiếm 0,02%, Sán dìu chiếm 0,02%  và Chăm chiếm 0,01%.

Hộ nghèo chiếm 18,45%; Các hộ nghèo tại các xã này có diện tích đất trung bình là 0,3 ha/hộ và thường làm nông cũng như đi làm thuê. Do điều kiện khí hậu khô hạn và đất bạc màu (do bị bỏ hoang) cho nên người dân chỉ canh tác 1 vụ/1 năm. Cây trồng chính là sắn (mì), đậu và cây ăn trái. Một số hộ nghèo có thêm nguồn thu nhập từ khai thác lâm sản ngoài gỗ (LSNG), săn bắt động vật hoang dã hoặc làm than. Thu nhập trung bình của những hộ này khoảng 450.000-700.000 đồng/người/tháng.

Đời sống của một số bộ phận người dân địa phương còn gặp nhiều khó khăn do không có đất canh tác và thiếu việc làm. Do số công việc thời vụ trong lĩnh vực nông nghiệp ít nên các hộ nghèo thường khai thác lâm sản trái phép, chặt gỗ để làm than, săn bắt động vật hoang dã và xâm lấn đất rừng để làm đất nông nghiệp. Những vi phạm này đang làm cho diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên rừng ngày càng suy giảm cả về chất lượng và số lượng.

Mặt khác, diện tích các lâm trường liền kề quanh khu bảo tồn hiện đã chuyển sang trồng cao su hoặc rừng trồng nên các hành lang rừng tự nhiên không còn nữa, ảnh hưởng đến vùng sống và di chuyển của các loài động vật, nhất là các loài thú lớn.

Nhận thức về tài nguyên rừng kém dẫn đến một bộ phận người dân cho rằng tài nguyên thiên nhiên là vô tận mà không xem xét đến nhu cầu bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học của rừng.

Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng (đường giao thông) và các khu du lịch làm thu hẹp diện tích của khu bảo tồn, chia cắt sinh cảnh và tăng khả năng tiếp cận rừng của người dân địa phương khi họ tìm kiếm thức ăn và lâm sản cho cả mục đích buôn bán và tiêu thụ trong gia đình.